Kiểm kê khí nhà kính là cơ sở đầu tiên để đo lường trách nhiệm phát thải của từng đơn vị, từng lĩnh vực. (Ảnh minh hoạ)
Cấp bách giám sát phát thải nhà khí kính
Kiểm kê khí nhà kính (KNK) đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát tiến độ giảm phát thải KNK. Dữ liệu từ kiểm kê giúp theo dõi hiệu quả của các biện pháp giảm phát thải, xác định các nguồn phát thải quan trọng và xác minh sự tuân thủ của các quy định về giảm KNK.
Theo Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Thương mại Luật gia Việt Nam (VLCAC), Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có tốc độ phát thải KNK tăng nhanh bậc nhất châu Á, phản ánh bức tranh vừa thách thức vừa khẩn trương trong chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững. Lượng phát thải KNK của Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục tăng mạnh nếu không có các biện pháp kiểm soát hiệu quả, đặc biệt từ các ngành năng lượng, công nghiệp và nông nghiệp.
Luật sư Hậu cho biết: Các báo cáo và thống kê gần đây cho thấy, lĩnh vực năng lượng đang chiếm tới khoảng 65-66% tổng lượng khí thải KNK; trong đó phần lớn đến từ việc sử dụng than đá tại các nhà máy nhiệt điện và sản xuất công nghiệp.
Nông nghiệp cũng là lĩnh vực phát thải KNK đáng kể, chiếm khoảng 13-19%, chủ yếu thông qua việc canh tác lúa nước và hoạt động chăn nuôi gia súc. Việt Nam hiện đứng trong nhóm 20 quốc gia phát thải nhiều KNK nhất trên thế giới và đứng thứ hai trong khu vực ASEAN, phản ánh rõ thách thức lớn về môi trường.
"Các dự báo gần đây cảnh báo rằng nếu không có những biện pháp can thiệp mạnh mẽ, lượng phát thải KNK của Việt Nam vào năm 2030 có thể tăng gấp 3 lần so với mức hiện nay, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các cam kết quốc tế cũng như sự phát triển bền vững của đất nước", Luật sư Nguyễn Văn Hậu nói.
Chủ tịch VLCAC Nguyễn Văn Hậu cho hay, thời gian qua, Chính phủ đã triển khai các phương án cắt giảm phát thải KNK phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn; đồng thời đưa ra các kịch bản phát thải đến năm 2030 và 2050.
Cụ thể, mục tiêu đến năm 2030, nếu sử dụng nguồn lực trong nước, Việt Nam hướng tới giảm 9% tổng lượng KNK so với kịch bản phát triển thông thường, tương đương gần 83,9 triệu tấn CO2. Nếu nhận được sự hỗ trợ quốc tế hiệu quả, mức giảm có thể đạt tới 27% (khoảng 250,8 triệu tấn CO2). Đến năm 2025, riêng lĩnh vực năng lượng và công nghiệp đặt mục tiêu giảm tối thiểu 8,2% KNK, và 36,4% nếu có hỗ trợ ngoài nước.
Bên cạnh đó, tháng 6/2025, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn quy định lộ trình phân bổ chỉ tiêu phát thải đến từng doanh nghiệp lớn trong ba giai đoạn: 2025-2026, 2027-2028 và 2029-2030, với lộ trình khắt khe và minh bạch nhằm đảm bảo cam kết quốc tế và kiểm soát nghiêm ngặt lượng phát thải quốc gia.
"Đây là động thái quan trọng nhằm hiện thực hóa các cam kết đưa phát thải ròng của Việt Nam về 0 vào năm 2050", Chủ tịch VLCAC Nguyễn Văn Hậu khẳng định.
Chủ tịch VLCAC cho biết thêm, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050, ban hành theo Quyết định 896/QĐ-TTg, xác lập mục tiêu trung tâm là “phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”. Định hướng chiến lược này không chỉ hướng tới giảm phát thải, mà còn tăng cường năng lực thích ứng và quản lý rủi ro thiên tai, góp phần bảo vệ an ninh nguồn nước, đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
"Muốn làm cũng không biết bắt đầu từ đâu"
Với ý nghĩa cấp bách đó, kiểm kê KNK không còn là sự lựa chọn, mà là nghĩa vụ bắt buộc với nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam. Để Việt Nam thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 như tuyên bố tại COP26, theo luật sư Nguyễn Văn Hậu, việc giảm phát thải là tất yếu, trong đó doanh nghiệp được xác định là tác nhân then chốt trong thực hiện các chiến lược giảm phát thải khí nhà kính.
Theo ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Vụ trưởng Vụ Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), kiểm kê KNK là cơ sở đầu tiên để đo lường trách nhiệm phát thải của từng đơn vị, từng lĩnh vực, từ đó mới có thể điều chỉnh chính sách, đầu tư công nghệ và thực hiện thị trường carbon một cách minh bạch. Trong giai đoạn khuyến khích 2023 - 2025, doanh nghiệp cần khẩn trương xây dựng kế hoạch giảm phát thải, triển khai các giải pháp phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh của mình.
"Lượng phát thải KNK bắt buộc phải giảm từ năm 2026, bởi vậy, khi triển khai kế hoạch này, doanh nghiệp sẽ đồng thời có sự chuẩn bị đầu tư công nghệ, xây dựng đội ngũ nhân lực thực hiện”, ông Quang cho biết
Theo Quyết định số 13/QĐ-TTg ngày 13/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ, có 2.166 cơ sở thuộc danh mục phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính giai đoạn 2023–2025. Các đối tượng gồm doanh nghiệp hoạt động trong 5 lĩnh vực phát thải lớn: Năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp, chất thải và sử dụng đất…
Cụ thể lộ trình được thực hiện như sau: Giai đoạn 2022–2025 buộc doanh nghiệp tự xây dựng năng lực, báo cáo kiểm kê thử nghiệm. Giai đoạn 2026 – 2028, doanh nghiệp báo cáo kiểm kê sẽ được đánh giá, kiểm tra, xác minh; từ 2028 trở đi sẽ áp dụng cơ chế định giá carbon và trao đổi tín chỉ. Tuy nhiên, việc đưa chủ trương, quy định vào thực tiễn là một câu chuyện không hề dễ.
Cuối năm 2024, tại Hội thảo NetZero-môi trường và năng lượng hướng tới thành phố không phát thải 2050, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách, Tài nguyên và Môi trường đã đưa ra số liệu: Ở thời điểm này, mặc dù 2.166 doanh nghiệp đã được yêu cầu phải thực hiện việc báo cáo phát thải KNK nhưng mới chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp đã sẵn sàng; đó là các doanh nghiệp trong lĩnh vực thép, xi măng, nhiệt điện.
Tính đến thời điểm này, kết quả kiểm kê KNK cũng chưa có bước tiến đột phá. Chỉ riêng tại TP. Hồ Chí Minh, theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường, tính đến tháng 6/2025, chỉ có hơn 180/700 doanh nghiệp lớn trong danh sách bắt buộc nộp báo cáo kiểm kê KNK, trong đó gần 60% báo cáo bị trả lại vì không đạt yêu cầu kỹ thuật.
Trên thực tế, không riêng TP. Hồ Chí Minh mà tại hầu hết các địa phương, doanh nghiệp gặp rất nhiều rào cản trong thực hiện kiểm kê KNK, nhất là vấn đề nhân sự.
Ông Lê Văn Cường, Phó Tổng giám đốc một công ty điện lạnh tại VSIP Bình Dương chia sẻ: "Doanh nghiệp hoàn toàn không có nhân sự phụ trách kiểm kê. Đào tạo một cán bộ có thể lập báo cáo KNK cần ít nhất 6 tháng, nhưng hiện nay chưa có nơi nào tổ chức đào tạo bài bản”.
Khảo sát nội bộ của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cho thấy, Việt Nam hiện mới có chưa đến 300 cán bộ có kỹ năng kiểm kê khí nhà kính, trong đó chưa đến 100 người đủ điều kiện hỗ trợ kiểm kê ở cấp doanh nghiệp.
Theo đại diện KCN Tân Thuận, doanh nghiệp có muốn làm cũng không biết thuê ai làm cho đúng. Cái khó nhất là thiếu bộ công cụ chuẩn, thiếu dữ liệu đầu vào, thiếu người hiểu kỹ thuật. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tuân thủ các yêu cầu từ thị trường quốc tế, đảm bảo đồng hành cùng lộ trình giảm phát thải quốc gia. Đồng thời, đưa ra những đề xuất trọng tâm đối với cộng đồng doanh nghiệp.
Chẳng hạn: Thực hiện kiểm kê khí nhà kính định kỳ giúp doanh nghiệp chủ động đo lường và xác định các nguồn phát thải chính; Xây dựng kế hoạch giảm phát thải cụ thể, lồng ghép mục tiêu giảm phát thải vào chiến lược sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp; Đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ xanh, công nghệ ít phát thải, áp dụng các các giải pháp sản xuất sạch hơn, tiết kiếm năng lượng, nâng cao hiệu suất vận hành. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu tham gia thị trường carbon, sàn giao dịch tín chỉ carbon, nhất là với các doanh nghiệp có thể tạo lập tín chỉ carbon như năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng,...
Luật sư Trịnh Văn Lộc (chuyên gia chính sách môi trường – VUSTA) cảnh báo: “Doanh nghiệp đang bị ép vào thế ‘vừa làm vừa đoán’. Họ đối mặt rủi ro pháp lý nếu làm sai, trong khi chưa có cơ chế kiểm định – xác minh rõ ràng.”
Chính vì vậy, doanh nghiệp cần quan tâm đến đào tạo nhân sự chuyên trách, cập nhật thường các chính sách quốc tế như CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon), EUDR,... Đây là nền tảng để doanh nghiệp nâng cao khả năng tuân thủ, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiếp cận hiệu quả các thị trường xuất khẩu lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản.
Doanh nghiệp cần tuân thủ các yêu cầu từ thị trường quốc tế, đảm bảo đồng hành cùng lộ trình giảm phát thải quốc gia. (Ảnh minh hoạ)
PGS.TS. Nguyễn Đình Hiền, chuyên gia biến đổi khí hậu nhận định: “Không thể yêu cầu doanh nghiệp lập báo cáo kiểm kê nếu họ không được cung cấp bộ công cụ chuẩn hóa, hệ thống tính toán rõ ràng và dữ liệu nền có thể đối chiếu. Hiện nay, quy định là bắt buộc, nhưng cách triển khai lại khiến doanh nghiệp như ‘bơi trong sương mù’.”
Một số doanh nghiệp trong ngành thép, xi măng, chế biến nông sản (nằm trong diện phải kiểm kê) cho rằng, hiện không đủ cơ sở dữ liệu chi tiết về tiêu thụ năng lượng ở từng khâu sản xuất, trong khi các chỉ số mặc định theo hệ số quốc gia vẫn chưa được cập nhật hoặc phổ biến rộng rãi. Điều này dẫn đến tình trạng “muốn làm cũng không biết bắt đầu từ đâu”, hoặc “làm cho có” để đối phó.
Thêm vào đó, cơ chế hỗ trợ kỹ thuật gần như chưa có. Các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương không đủ nhân lực chuyên trách, thiếu chuyên gia hỗ trợ, khiến việc thẩm định báo cáo (nếu có) cũng không bảo đảm tính đồng bộ và minh bạch.
Hướng đi nào để sửa “lỗi hệ thống”?
Nghị định 119/2025/NĐ-CP lần đầu tiên đề cập đến trách nhiệm xử lý dữ liệu không trung thực, cố tình né tránh nghĩa vụ kiểm kê. Nhưng không ít doanh nghiệp lo rằng, nếu vẫn tiếp tục thiếu hỗ trợ và chuẩn hóa, chính sách sẽ trở thành “cái bẫy ngược”.
Bà Lê Thu Huyền, đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hồ Chí Minh nhận định: “Kiểm kê KNK là công cụ để phát triển bền vững, nhưng nếu thiếu đi sự hỗ trợ về mặt hệ thống, thì công cụ ấy có thể trở thành rào cản”
Kiểm kê khí nhà kính là công cụ để phát triển bền vững, nhưng nếu thiếu đi sự hỗ trợ về mặt hệ thống, thì công cụ ấy có thể trở thành rào cản.
Kiểm kê khí nhà kính là công cụ để phát triển bền vững, nhưng nếu thiếu đi sự hỗ trợ về mặt hệ thống, thì công cụ ấy có thể trở thành rào cản. (Ảnh minh hoạ)
Theo tìm hiểu của phóng viên, "lỗi hệ thống" trong kiểm kê KNK xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn như thiếu dữ liệu đầu vào về tiêu thụ nhiên liệu hoặc quá trình sản xuất không đầy đủ; áp dụng sai hệ số phát thải, không phù hợp với điều kiện trong nước hoặc không theo hướng dẫn IPCC; chỉ tập trung vào CO2 mà bỏ qua CH4, N2O, HFCs,... từ nông nghiệp, chất thải công nghiệp không đảm bảo;... Đây là một trong những thách thức lớn nhưng có thể khắc phục nếu có cách tiếp cận đúng và phù hợp
Để tháo gỡ điểm nghẽn, các chuyên gia kiến nghị: Thiết lập bộ hướng dẫn kỹ thuật quốc gia về kiểm kê KNK cho từng ngành, đi kèm bộ công cụ tính toán, phần mềm miễn phí; thành lập trung tâm xác minh độc lập (third-party verifier) với hệ thống chứng nhận chuyên gia, chuyên viên đánh giá; xây dựng kho dữ liệu KNK mở theo ngành và địa phương để doanh nghiệp có thể tra cứu và chuẩn hóa số liệu đầu vào; Đào tạo 5.000 chuyên gia kiểm kê khí nhà kính đến năm 2030, theo lộ trình phát triển thị trường carbon của Chính phủ; tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi mô hình kiểm kê của EU, Hàn Quốc, Nhật Bản và tích hợp vào hệ thống quốc gia.
Đặc biệt, doanh nghiệp chính là đối tượng có nguồn lực để chuyển đổi, triển khai các biện pháp giảm phát thải. Với năng lực tài chính, công nghệ và khả năng quản trị, doanh nghiệp có thể chủ động áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng, thay đổi nguyên liệu đầu vào, đầu tư công nghệ sạch, hoặc tham gia vào các cơ chế thị trường carbon góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK của ngành, quốc gia,...
Việt Nam đang đứng trước thời điểm quyết định, hoặc nhanh chóng giải quyết các điểm nghẽn về thể chế – năng lực – hạ tầng kỹ thuật, hoặc sẽ tự làm khó mình khi thị trường carbon chính thức đi vào vận hành. Kiểm kê KNK là nền móng cho chuyển đổi xanh. Nhưng nếu thiếu thiết kế hệ thống đồng bộ, kiểm kê KNK sẽ trở thành gánh nặng vô hình đè lên vai doanh nghiệp, thay vì là công cụ hỗ trợ họ hội nhập và phát triển bền vững.
Theo Tạp chí doanh nghiệp và kinh tế xanh