[In trang]
“Kích hoạt” tiềm năng thị trường tín chỉ carbon
Thứ bảy, 18/10/2025 - 08:07
Sự hình thành thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam đang mở ra một kênh đầu tư tiềm năng tạo giá trị bền vững. Dù có tiềm năng lớn nhưng Việt Nam đang gặp nhiều thách thức trong triển khai và tham gia thị trường tín chỉ carbon quốc tế.

Những giá trị vô hình

Là quần đảo với 16 đảo lớn nhỏ tổng diện tích hơn 75km2, đặc khu Côn Đảo không chỉ là điểm du lịch nổi tiếng mà còn là kho báu thiên nhiên với hệ sinh thái rừng - biển phong phú. Nơi đây có tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp hơn 6.462 ha, trong đó gần 93% là rừng tự nhiên. Qua thống kê, trữ lượng gỗ bình quân tại rừng tự nhiên ở Côn Đảo hơn 130 m3/ha, góp phần hình thành “bể chứa carbon” quy mô lớn với tổng trữ lượng đạt gần 430.000 tấn. Đồng thời, hợp phần biển còn có khả năng lưu trữ hơn 300 tấn carbon; cùng 15 tấn ở các thảm cỏ biển.

Không chỉ dừng lại ở tiềm năng, “rừng vàng biển bạc” đã hình thành một nguồn thu ổn định, giúp bảo vệ rừng, nâng cao sinh kế cho người dân, đồng thời thu hút vốn đầu tư xanh. Tại tỉnh Quảng Trị, xã Cao Quảng nằm trong thung lũng phía Đông dãy Trường Sơn hùng vĩ, ông Nguyễn Quang Huy, Chủ tịch HĐQT HTX Lâm nghiệp Cao Quảng cho biết do hoạt động kém hiệu quả nên Chính phủ cho phép giải thể lâm trường vào năm 2005. Sau khi giao đất rừng về cho địa phương quản lý, tiềm năng “rừng vàng biển bạc” bước đầu được khai thác hiệu quả. Năm 2025, xã Cao Quảng nhận được gần 4 tỷ đồng tiền chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng từ Quỹ Đối tác Carbon rừng của Ngân hàng Thế giới (FCPF).

Ông Lê Quang Linh, chuyên gia dự án giảm phát thải, tài chính xanh của Giant Barb Việt Nam cho biết, hiện có 4 loại hình dự án hiện có tiềm năng phát triển tín chỉ carbon rất lớn tại Việt Nam. Đó là dự án sản xuất biochar từ phế - phụ phẩm nông nghiệp; dự án thu hồi biogas và phát điện từ hoạt động chăn nuôi heo; dự án thu hồi khí từ bãi rác, bãi chôn lấp chất thải để phát điện và dự án đốt rác phát điện. Năm 2023, với việc giao dịch thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon và nhận về 51,5 triệu USD, Việt Nam vào top 15 quốc gia bán tín chỉ carbon hàng đầu thế giới. Tuy vậy, tiềm năng doanh thu hàng năm từ bán tín chỉ carbon của Việt Nam có thể lớn gần 6 lần con số trên nếu thị trường này được phát triển bài bản.

Hiện vướng mắc lớn nhất là chưa có hành lang pháp lý rõ ràng và đồng bộ cho thị trường carbon; quyền sở hữu và chuyển quyền carbon/kết quả giảm phát thải chưa rõ ràng. Doanh nghiệp đầu tư với chi phí lớn để hình thành tín chỉ carbon nhưng quy định pháp luật đang bỏ ngỏ việc xác lập giao dịch bảo đảm khiến tín chỉ carbon chưa được xem xét là tài sản bảo đảm cho các giao dịch tài chính khác. Trong khi đó, năng lực công nghệ đo lường, báo cáo và thẩm định phát thải của Việt Nam còn hạn chế, cũng như chưa đảm bảo tính toàn vẹn môi trường và tránh tính 2 lần trong giao dịch quốc tế, nhất là trong giao dịch song phương, ông Linh chia sẻ.

Tiềm năng doanh thu từ bán tín chỉ carbon hàng năm của Việt Nam ước tính lên đến 300 triệu USD

Cơ chế mở đường cho cơ hội

Để vượt qua các thách thức và khai thác tối đa tiềm năng, ông Linh cho rằng, quan trọng nhất cần ưu tiên hoàn thiện khung pháp lý và chính sách. Chỉ khi hành lang pháp lý minh bạch, cập nhật kịp thời với sự phát triển chung, xác định rõ hướng đi cho thị trường carbon thì mới tạo sự ổn định, thu hút đầu tư dài hạn và khai thác tối đa tiềm năng của tín chỉ carbon, không chỉ trên thị trường giao dịch mà còn trong các lĩnh vực khác có liên quan như ngân hàng, tài chính, đầu tư.

Trước đó, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cũng khẳng định, để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả, cần chính sách đồng bộ từ việc cấp hạn ngạch, giám sát triển khai đến các công cụ kinh tế như thuế nhằm tạo cầu. Then chốt là phải có thị trường, có cung - cầu thực chất, doanh nghiệp thấy lợi ích thì mới có động lực đổi mới công nghệ, quản trị để giảm phát thải.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, toàn bộ hành lang pháp lý và hạ tầng kỹ thuật cần thiết sẽ được hoàn thiện để thị trường carbon có thể vận hành thử nghiệm vào cuối năm 2025. TS. Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu thông tin, Bộ đang xây dựng nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng bởi khi thực hiện giao dịch quốc tế, nếu không có cơ chế quản lý chặt chẽ, lượng phát thải giảm được của Việt Nam không được tính vào mục tiêu quốc gia mà chuyển sang phần đóng góp của nước mua. Tín chỉ carbon phải được tạo theo tiêu chuẩn và phương pháp minh bạch, giao dịch phải có sự quản lý, điều tiết của nhà nước để tránh ảnh hưởng cam kết của quốc gia và doanh nghiệp trong nước.

Để nắm bắt được thời cơ trên thị trường đầy tiềm năng này, PGS-TS. Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược - Chính sách (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), khuyến nghị doanh nghiệp cần tham gia thị trường carbon một cách khôn ngoan để tận dụng nguồn tài chính khí hậu, thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, giảm phát thải, đồng thời huy động thêm nguồn lực cho quốc gia, doanh nghiệp và người dân. Ngoài ra, xu hướng toàn cầu hiện nay là kết nối thị trường tự nguyện với thị trường tuân thủ, thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Trong đó, việc kết nối giữa thị trường tuân thủ và tự nguyện chủ yếu thực hiện qua cơ chế bù trừ carbon, còn việc kết nối giữa thị trường trong nước và quốc tế được thực hiện thông qua điều 6 của Thỏa thuận Paris, cho phép Việt Nam huy động nguồn lực tài chính và công nghệ quốc tế, đồng thời đảm bảo tính toàn vẹn môi trường.

Ngoài ra, các chuyên gia cũng lưu ý, dự án tín chỉ carbon phải tuân thủ nhiều nguyên tắc khắt khe và chủ dự án phải tiến hành nhiều thủ tục, nhiều bước đòi hỏi kỹ thuật cao để thẩm định và chứng minh dự án. Điều này đồng nghĩa, các doanh nghiệp cần dự trù sẵn nguồn chi phí khá lớn. Doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển nội địa và tăng cường hợp tác quốc tế để chuyển giao các công nghệ giảm phát thải tiên tiến; xây dựng năng lực quốc gia về kiểm kê, đo lường, báo cáo, thẩm định và xác minh đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.

Theo Thời Báo Ngân Hàng