[In trang]
Định vị năng suất ngành Than trong tương lai
Thứ sáu, 08/08/2014 - 09:50
Theo Quy hoạch phát triển ngành Than, đến năm 2020 có xét triển vọng đến năm 2030, Vinacomin sẽ sản xuất trên 75 triệu tấn than cho nền kinh tế, gấp gần 2 lần sản lượng hiện nay.

Theo Quy hoạch phát triển ngành Than, đến năm 2020 có xét triển vọng đến năm 2030, Vinacomin sẽ sản xuất trên 75 triệu tấn than cho nền kinh tế, gấp gần 2 lần sản lượng hiện nay. Để biến bản quy hoạch này thành hiện thực, đây đúng là một thách thức, một mục tiêu táo bạo yêu cầu ngành Than cần có những bứt phá lớn về năng suất chất lượng, đồng thời cũng là đảm bảo sự phát triển bền vững của Tập đoàn trong tương lai.

Khi lập quy hoạch phát triển ngành, Vinacomin đã tính toán xác định chi tiết nhu cầu cả về sản lượng và mục tiêu. Theo đó, sản lượng quy hoạch đến 2030 đã được Chính phủ phê duyệt, sản lượng than thương phẩm sản xuất toàn ngành trong các giai đoạn như sau: Năm 2015: 45-50 triệu tấn; năm 2020: 55-60 triệu tấn; năm 2030: 65-70 triệu tấn.

Trên thực tế, tốc độ phát triển của Vinacomin trong những năm qua đã là dẫn chứng cụ thể khẳng định, Vinacomin đưa ra mục tiêu, phương hướng của mình là hoàn thoàn phù hợp. Để việc khai thác than đạt hiệu quả cao nhất, chỉ trong vòng chưa đầy thập kỷ qua, Vinacomin đã đưa hàng loạt dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại vào lĩnh vực khai thác và chế biến than. Các dây chuyền này không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giúp giảm thiểu tác động xấu đến môi trường sinh thái. 

Đột phá quan trọng nhất là Vinacomin đã chuyển từ vì chống gỗ trong hầm lò sang vì chống thủy lực trong khai thác than, góp phần giảm tổn thất tài nguyên, giúp nâng cao năng suất, tăng sản lượng một lò chợ từ 50.000-60.000 tấn lên 150.000-200.000 tấn/năm, có nơi đạt trên 200.000 tấn/năm. Nhiều lò chợ cơ giới hoá đồng bộ đã đạt 300-400 ngàn tấn/năm. Bên cạnh đó, việc đưa hệ thống kiểm soát khí cháy nổ khí mêtan vào trong hầm lò đã giúp các mỏ hầm lò làm chủ việc đánh giá hàm lượng khí mêtan trong các vỉa than, kiểm soát, phân tích thông gió và quan trắc khí mỏ hầm lò. 

Đồng thời, việc hình thành Trung tâm An toàn mỏ đã giúp ngành Than đưa trình độ công nghệ quản lý khí mỏ của Vinacomin sánh ngang tầm với các nước trong khu vực. Nhờ đó, việc xác định độ chứa khí mêtan trong các vỉa than đã được thực hiện tại tất cả các mỏ và được phân loại theo mức độ nguy hiểm về khí. Hàng loạt hệ thống tự động quan trắc khí mêtan tập trung đã được thiết kế, lắp đặt và đưa vào hoạt động ở hầu hết các mỏ hầm lò và được kết nối với mạng Internet để giám sát từ xa. Hệ thống tháo khí mêtan trong vỉa than đã được đưa vào hoạt động tại một số đơn vị, phát huy hiệu quả.

Hiện nay, để đưa quy hoạch thành hiện thực, Vinacomin đang tích cực chỉ đạo các đơn vị thực hiện dứt điểm một số nhiệm vụ khoa học công nghệ mang tính đột phá nhằm nâng cao năng suất cho ngành Than. Khẩn trương triển khai một số dự án mở mỏ hầm lò mới như: Khe Chàm II-IV, Khe Chàm III, mỏ hầm lò Núi Béo...  Với các mỏ than tại vùng Quảng Ninh, Vinacomin chỉ đạo đẩy mạnh cơ giới hóa khấu than trong lò chợ để từ nay đến năm 2015, ở mỗi mỏ có từ 1-2 lò chợ cơ giới hóa với công suất cao.

Để có lời giải cho việc khai thác than đồng bằng sông Hồng, Vinacomin đang nghiên cứu thử nghiệm công nghệ đào chống và khấu than trong điều kiện đất đá mềm yếu, sự ảnh hưởng của nước mặt và nước sông Hồng đến các công trình mỏ cũng như vấn đề suy thoái nước mặt và nước ngầm, sụt lún bề mặt đất và bảo vệ đồng ruộng, hoa màu và các công trình bề mặt… Đây là một trong những tiền đề vững chắc để Vinacomin thực hiện thành công đề án phát triển của mình trong 10-15 năm tới đây, để đảm bảo sản lượng cũng như chất lượng của nguồn than theo quy hoạch đề ra phục vụ phát triển nền kinh tế đất nước.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, Vinacomin còn rất nhiều việc cần phải làm. Trong đó, về mức độ tin cậy tài nguyên, trữ lượng còn thấp, để lập dự án đầu tư mỏ mới cần thiết phải khoan thăm dò bổ sung, nâng cấp trữ lượng. Công việc này  đòi hỏi nhiều thời gian và kinh phí như các dự án khai thác -150 mỏ Mạo Khê, Dự án dưới -131 mỏ Đồng Vông… Mặt khác, các đơn vị làm công tác địa chất thăm dò cần tái cơ cấu để đảm bảo hoạt động hiệu quả hơn, không nên để nhỏ lẻ như hiện nay. 

Cần đẩy nhanh việc làm thủ tục tháo gỡ vùng cấm hoạt động khai thác khoáng sản để đảm bảo tiến độ đầu tư các dự án. Việc này đòi hỏi Bộ Tài nguyên và môi trường, các địa phương tạo điều kiện cùng giải quyết. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy nhanh việc nghiên cứu lựa chọn các giải pháp, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong khai thác than hầm lò, để tăng năng suất, tận thu được tài nguyên và đảm bảo an toàn cho người lao động.

Đồng thời, tổ chức triển khai theo Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đến 2015 và tầm nhìn đến 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 314/QĐ-TTg ngày 07/02/2013 để nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.


TS Nguyễn Văn Hải - Vinacomin