Thứ ba, 02/09/2025 | 02:51 GMT+7
Ngành trồng trọt đang là nguồn phát thải khí nhà kính lớn. Ảnh: Trung Chánh
“Cấp bách” xoay chuyển sản xuất giảm phát thải
Cục trồng trọt và bảo vệ thực vật vừa có dự thảo đề án “Sản xuất trồng trọt giảm phát thải 2025-2035”. Đây là bước đi nhằm giúp Việt Nam kéo giảm lượng phát thải, góp phần thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Ông Hoàng Trung, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường dẫn số liệu kiểm kê khí nhà kính năm 2020, cho biết tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam ở mức trên 454 triệu tấn CO2 tương đương, tăng gấp đôi so với liệu công bố năm 2010.
Theo ông Trung, với kịch bản phát triển thông thường (không có biện pháp can thiệp để giảm nhẹ), dự báo đến 2030, tổng lượng phát thải của Việt Nam có thể vượt 990 triệu tấn CO2 tương đương, tức tăng 536 triệu tấn CO2 tương đương so với con số kiểm kê của năm 2020. Đây là thách thức rất lớn trong cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.
Còn số liệu của Cục trồng trọt và bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết riêng lĩnh vực nông nghiệp chiếm 19,8% tổng lượng phát thải của Việt Nam (454 triệu tấn CO2 tương đương), tức đạt khoảng 90 triệu tấn, trong đó, riêng trồng trọt chiếm 70,4% tổng lượng phát thải lĩnh vực nông nghiệp, đạt khoảng 63 triệu tấn CO2 tương đương.
Tại hội nghị tham vấn ”Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025-2035” diễn ra mới đây theo hình thức trực tuyến, ông Lương Quang Huy, Trưởng phòng giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone của Cục biến đổi khí hậu, cho biết đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) về giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam được cập nhật mới nhất vào năm 2022.
Theo đó, Việt Nam tự nguyện cam kết giảm 15,8% lượng phát thải và trường hợp nếu có sự hỗ trợ của quốc tế sẽ giảm đến 43,5%. “Tính ra định lượng, giảm 43,5% tức Việt Nam sẽ giảm khoảng 500 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường (tức không có biện pháp can thiệp để giảm nhẹ phát thải), trong đó, nông nghiệp chiếm khoảng 10-15%”, ông Huy cho biết và thông tin, NCD phiên bản 3.0 dự kiến được công bố trong năm nay.
Theo ông Huy, tính toán của Cục biến đổi khí hậu, tổng lượng phát thải khí metan (CH4) quy đổi ra CO2 tương đương là khoảng 110 triệu tấn, trong đó, Việt Nam cam kết với quốc tế, đến năm 2030 giảm 30% của 110 triệu tấn, tức giảm 33 triệu tấn khí CH4 đã được quy đổi sang CO2 tương đương.
Từ thực trạng nêu trên, ông Hoàng Trung nhấn mạnh, yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nhất là chuyển đổi trồng trọt sang hướng phát thải thấp. Bởi lẽ, đây là lĩnh vực phát thải lớn nên có tiềm năng giảm phát thải cao. Nếu được định hướng đúng và hành động bài bản chúng ta sẽ làm được.
Sau cây lúa, muốn kéo giảm phát thải khí nhà kính cho mì, cà phê, chuối và mía. Ảnh: Trung Chánh
Thiếu “nền tảng” cho hành động giảm phát thải
Để giảm phát thải, hiện thực hoá cam kết của Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó cục trưởng Cục trồng trọt và bảo vệ thực vật, cho biết đến năm 2030, lĩnh vực trồng trọt góp phần quan trọng vào mục tiêu giảm 30% tổng lượng phát thải khí CH4 (lượng khí CH4 quy đổi ra CO2 tương đương hiện đạt khoảng 110 triệu tấn); giảm ít nhất 10% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với năm 2020.
Đồng thời, tổ chức triển khai ít nhất 15 mô hình sản xuất giảm phát thải tại các vùng sinh thái có khả năng nhân rộng; thí điểm ít nhất 5 mô hình canh tác có khả năng phát triển tín chỉ carbon đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức quốc tế….
Để hiện thực hoá mục tiêu giảm phát thải, Cục trồng trọt và bảo vệ thực vật đưa ra hai phương án lựa chọn cây trồng để triển khai. Trong đó, phương án 1 sẽ thực hiện với 5 loại cây trồng trên phạm vi toàn quốc, gồm lúa, mì (sắn), cà phê, chuối và mía; phương án 2 sẽ thực hiện với các loại cây trồng, trong đó, tập trung vào 5 loại cây ở phương án 1.
Theo bà Hương, việc chuyển đổi sản xuất theo hướng giảm phát thải cũng là cách tiết kiệm chi phí khi sử dụng ít vật tư nông nghiệp, bảo vệ đa dạng sinh học, giảm ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng nông sản, nhất là khi các thị trường lớn như EU (Liên minh châu Âu), Nhật Bản ngày càng “siết” yêu cầu liên quan phát thải, sản xuất bền vững.
“Do đó, việc xây dựng thương hiệu nông sản phát thải thấp, có trách nhiệm với môi trường và đảm bảo canh tác đủ năng lực hội nhập sâu vào chuỗi gái trị toàn cầu là yêu cầu cấp thiết”, bà Hương nhấn mạnh.
Tuy nhiên, ông Huy của Cục biến đổi khí hậu nhấn mạnh, việc chuyển đổi sản xuất là mục tiêu khó khăn và có nhiều thách thức trong thực tế.
Chẳng hạn, trong 5 loại cây trồng chủ lực được đề cập chuyển đổi, lúa là loại cây trồng đầu tiên đang thực hiện chuyển mô hình sản xuất thông qua đê án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Theo đó, các chỉ số về hiệu quả kinh tế lẫn lượng giảm phát thải qua các mô hình thí điểm được triển khai đều đi đến kết quả tích cực. Trong đó, có mô hình cho hiệu quả kinh tế cao hơn 4,6-4,8 triệu đồng/héc ta, trong khi lượng phát thải giảm 3,13 tấn CO2 tương đương/héc ta/vụ.
Tuy nhiên, khi mở rộng quy mô trên thực tế, thì loại cây trồng đầu tiên này (lúa) đang vướng về hạ tầng. Bởi lẽ, cần phải đầu tư hạ tầng đồng bộ để đảm bảo việc rút nước (tưới ngập/khô luân phiên)- vốn là yêu cầu quan trọng để đảm bảo kéo giảm được lượng phát thải.
Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho biết vướng mắc lớn nhất hiện nay là cơ chế tài chính để hỗ trợ phát triển thuỷ lợi, đảm bảo rút nước theo đúng lịch thời vụ.
Được biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình các bộ, ngành đề án nâng cao năng lực kỹ thuật và hạ tầng cho 1 triệu héc ta, với đề xuất vốn vay 340 triệu đô la Mỹ (khoảng 8.500 tỉ đồng) từ Ngân hàng thế giới (WB).
Trong khi đó, theo thừa nhận của bà Hương, về chính sách định hướng quốc gia, hiện chưa có chương trình tổng thể đồng bộ nào ở cấp quốc gia về sản xuất nông nghiệp phát thải thấp; cơ chế khuyến khích người dân, doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất phát thải thấp cũng chưa rõ nét.
Thậm chí, vị Phó cục trưởng Cục trồng trọt và bảo vệ thực vật cũng thừa nhận, hiện chưa có tiêu chuẩn/tiêu chí quốc gia về trồng trọt phát thải thấp hay các sản phẩm phát thải thấp trong ngành trồng trọt nói riêng và ngàng nông nghiệp nói chung.
Còn về công nghệ, tức hệ thống MRV (hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính), trong ngành trồng trọt đến nay chưa có một hệ thống MRV nào được chuẩn hoá, triển khai đồng bộ trong thực tế. “Cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống giảm phát thải hay hệ thống báo cáo phát thải định kỳ vẫn chưa được xây dựng”, bà Hương cho biết và thừa nhận, các số liệu phát thải đang rất thiếu, chỉ mới tập trung làm nhiều trên cây lúa.
Ngoài cây lúa, các hướng dẫn về quy trình kỹ thuật cụ thể để canh tác giảm phát thải cây trồng hiện chưa được xây dựng bài bản. “Người dân/doanh nghiệp nhận thức về canh tác giảm phát thải cũng như hiệu quả, cách thức thực hiện và tác động của nó đối với môi trường, đời sống, kinh tế…, vẫn chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn”, bà Hương nêu thực trạng.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, đại diện Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, đề xuất cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ thân thiện môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo để giảm phát thải.
Theo đó, vị đại diện doanh nghiệp nêu trên, kiến nghị tăng giá mua điện sinh khối để khuyến khích doanh nghiệp ngành đường phát triển năng lượng tái tạo ở lĩnh vực này. Đồng thời, cần xây dựng thị trường carbon công khai, minh bạch, bởi lợi ích kinh tế sẽ là động lực kích thích doanh nghiệp tham gia nhiều hơn, góp phần hiện thực hoá cam kết của Việt Nam.
Việc chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng giảm phát thải là cần thiết, phù hợp với xu hướng mới. Tuy nhiên, việc chuyển đổi đang tồn tại rất nhiều thách thức cần phải giải quyết để hiện thực hoá mục tiêu đề ra…
Theo thesaigontime.vn
Khai thác hiệu quả tiềm năng của nguồn năng lượng xanh và năng lượng tái tạo không chỉ giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng GDP hai con số trong nhiều năm, mà còn tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển bền vững.
30/08/2025